LỊCH SỬ 100 NĂM HÌNH THÀNH, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH (17/10/1921-17/10/2021)
LỊCH SỬ 100 NĂM HÌNH THÀNH, XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN
THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH
(17/10/1921-17/10/2021)
-----
I. Vị trí địa lý, lịch sử hình thành, phát
triển của thành phố Nam Định
1. Những dấu mốc lớn và giá trị truyền thống trong dòng
chảy lịch sử
Thiên Trường xưa- thành phố Nam Định ngày nay nằm ở phía
Bắc của tỉnh Nam Định, trên tọa độ 24024’ đến 20027’
vĩ độ Bắc, 106007 đến 106012’ kinh độ Đông; sông
Đào chảy ngang thành phố theo chiều Đông Bắc- Tây Nam; sông Hồng chảy bên thành
phố làm ranh giới tự nhiên với tỉnh Thái Bình; phía Đông giáp tỉnh Thái Bình,
các huyện Mỹ Lộc, Nam Trực; phía Tây giáp các huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản; phía Nam
giáp các huyện Nam Trực, Vụ Bản; phía Bắc giáp huyện Mỹ Lộc.
Trong suốt
các thời kỳ lịch sử từ phủ Thiên Trường cho đến thành phố Nam Định ngày nay,
thành phố và tỉnh Nam Định đã trải qua các tên gọi: Thiên Trường, Sơn Nam, Vị
Hoàng rồi Nam Định. Danh xưng “trấn Nam Định” chính thức có từ năm 1822 thời
vua Gia Long nhà Nguyễn. Đến năm 1832 vua Minh Mạng đặt tên là “tỉnh Nam Định” khi
chia đất nước thành 31 tỉnh và kinh đô Huế. Tên gọi trong nhân dân “ Thành Nam”
bắt đầu từ khi nhà Nguyễn cho xây dựng thành Nam Định và cột cờ Nam Định vào
khoảng năm 1812.
Nam Định nổi
tiếng là đất văn hiến, đất hiếu học từ ngàn xưa đến nay. Trải qua các triều đại
phong kiến, học hành thi cử luôn được người dân và quan lại chú trọng. Nhiều
con em Thành Nam đỗ đạt cao, làm rạng danh quê hương như Trần Bích San, Vũ Công
Độ, Trần Doãn Đạt, Trần Tế Xương…Năm 1920 Toàn quyền Đông Dương thời Pháp thuộc
cho thành lập trường Thành Chung ( tiền thân của trường THPT chuyên Lê Hồng
Phong ngày nay) là nơi đào tạo bậc học phổ thông cho con em Nam Định và các tỉnh
xung quanh. Nam Định có nhiều lễ hội truyền thống gắn với sinh hoạt văn hóa dân
gian độc đáo, phản ánh thế giới vật chất và tâm linh sinh động, tiêu biểu là lễ
hội đền Trần- chùa Tháp.
Thành phố
Nam Định đã sớm trở thành một trung tâm văn hóa, chính trị, tôn giáo ngay từ giữa
thế kỷ XIII trong lịch sử Việt Nam. Năm 1262, nhà Trần cho xây dựng phủ Thiên
Trường (phường Lộc Vượng ngày nay) với đầy đủ cung điện, phủ đệ, mở các trang ấp
của hoàng tộc. Hành cung Thiên Trường là kinh đô thứ hai của vương triều Trần
sau kinh thành Thăng Long. Thế kỷ XIII- XIV, Tức Mặc- Thiên Trường là một trung
tâm hành chính, kinh tế, giao thương phát triển. Thời phong kiến nhà Lê, nhà
Nguyễn, Sơn Nam- Vị Hoàng là một trong sáu nơi trong cả nước có trường thi
Hương. Thời nhà Nguyễn, Nam Định là một trong ba đô thị bao gồm Hà Nội, Huế,
Nam Định được dựng cột cờ.
Từ giữa
thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đánh chiếm Thành Nam, tiếp nối tinh thần yêu nước
bất khuất của ông cha, phong trào chống Pháp bùng lên mạnh mẽ. Năm 1884, sau
khi chiếm được Nam Định, thực dân Pháp đã xây dựng phố xá, chợ, bến tầu thủy,
các nhà máy, xưởng sản xuất nhỏ… Năm 1889, tư bản người Pháp mở rộng quy mô sản
xuất, xây nhà máy dệt, nhà máy sợi lớn nhất Đông Dương. Quá trình đô thị hóa diễn
ra nhanh chóng, thành phố Nam Định trở thành một trung tâm công nghiệp lớn của
Bắc Kỳ nói và toàn xứ Đông Dương. Trên cơ sở đó, ngày 17-10-1921, Toàn quyền
Đông Dương ra Nghị định thành lập thành phố Nam Định, hưởng quy chế của thành
phố cấp III, đưa thành phố Nam Định trở thành một trong những thành phố
đầu tiên được chính quyền thực dân Pháp lập ra ở Liên bang Đông Dương; một trong
3 thành phố ở Bắc Bộ.
Nghị định
thành lập thành phố Nam Định là cơ sở để chính quyền Pháp xây dựng các công cở như:
Tòa Công sứ, Tòa Án tây, Sở Kho bạc, Sở Thương chính, Nhà dây thép, Sở Y tế, Sở
Lục lộ (công chính), trường học, Sở Giám binh, Đề lao, Sở mật thám…và xây dựng
thêm nhiều nhà máy, xí nghiệp như Nhà máy chai, Nhà máy rượu, Nhà máy tơ, Nhà
máy nước, Nhà máy điện… Đồng thời thực hiện quy hoạch, xây dựng chín khu phố và
40 phố, hình thành các phố chuyên sản xuất, kinh doanh 1 mặt hàng như hàng Đồng, hàng Đường,
hàng Giấy, phố Khách, hàng Sắt, hàng Rượu…. Tư bản Pháp, Hoa Kiều cũng xây dựng
nhiều khách sạn, nhà hàng phục vụ cho nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí như Phẩm Anh
Nghi, Nam Việt, Viễn Lai Lầu, Quảng Nguyên, Quảng Hưng... Các chợ phục vụ nhu cầu
trao đổi hàng hóa phát triển, có 4 chợ lớn là chợ Rồng, chợ Phượng, chợ Vị
Hoàng, chợ Cửa Trường. Diện tích của thành phố đến năm 1942 ước tính trên 6km2
(dài khoảng 4,4km, rộng 1,4km), kết cấu đường phố theo kiểu ô bàn cờ với các vườn
hoa, quảng trưởng làm điểm nhấn. Dân số thành phố năm 1928 tới 3,5 vạn người, đến
năm 1942 tăng lên khoảng trên 4,2 vạn người.
Để thuận
lợi cho giao thương, buôn bán hàng hóa, ngoài việc phát triển các tuyến đường thủy trên sông Đào, sông Hồng (
bến Đò Chè, bến Đò Quan), thực dân Pháp còn mở tuyến đường sắt Hà Nội- Sài Gòn
đi qua ga chính Nam Định ( hoàn thành năm 1903), mở rộng, nâng cấp các tuyến đường
bộ liên tỉnh, liên huyện. Diện mạo của Thành Nam thế kỷ XVIII, XIX là thành thị
phong kiến với phần thành nặng hơn phần thị, đến đầu thế kỷ XX là một thành phố
có cấu trúc đô thị hiện đại kiểu phương Tây với nhiều chức năng, mà chủ yếu là
chức năng kinh tế- thương mại, có các cơ sở hạ tầng về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
Sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra Sắc lệnh số 77, ngày 21-12-1945 quyết định thành phố Nam Định là một
trong số 8 thành phố của cả nước (cùng với Hà Nội, Hải Phòng, Vinh- Bến Thủy,
Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Sài Gòn- Chợ Lớn). Thành phố Hà Nội đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Chính phủ Trung
ương, các thành phố khác đặt dưới sự quản lý của các kỳ (sau đổi thành bộ).
Thành phố Nam Định do Bắc Kỳ (Bắc Bộ) quản lý. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp,
thành phố Nam Định có một số thay đổi về địa giới, ngày 15-9-1950 sáp nhập 4 xã
Lộc An, Mỹ Xá, Lộc Hạ, Lộc Hòa của huyện Mỹ Lộc vào thành phố. Đến ngày
03-9-1957, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 405/TTg sáp nhập thành phố Nam Định
vào tỉnh Nam Định. Từ 9-1957 đến nay thành phố Nam Định là đô thị trực
thuộc tỉnh, thủ phủ của tỉnh Nam Định. Hiện nay thành phố có diện tích 46,6 km2 22 phường, 3 xã, dân số hơn 26 vạn người.
2. Sự
ra đời của tổ chức đảng và quá trình tổ chức nhân dân thành phố đấu tranh giành
thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Dưới tác
động của hai cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất: 1897-1914, lần thứ hai:
1919-1929), xã hội Việt Nam đã có những chuyển biến từ xã hội phong kiến sang
xã hội thuộc địa nửa phong kiến với sáu giai tầng cơ bản: quan chức thực dân,
tư sản bản xứ, tiểu tư sản, công nhân, địa chủ và nông dân. Từ đầu thế kỷ XX,
các trào lưu tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản ở phương Tây, sau đó là tư tưởng
cách mạng vô sản từ nước Nga Xô- viết đã được truyền bá rộng rãi vào Việt Nam,
làm dấy lên phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nhân dân thành phố Nam
Định đã hăng hái tham gia phong trào đấu tranh sôi nổi chống thực dân- phong kiến
như các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, phong trào tẩy chay tư sản nước
ngoài, phong trào đòi tự do dân chủ những năm 1925-1926, phong trào đấu tranh của
công nhân Nhà máy Dệt, nhà máy Sợi….
Tháng
6-1925, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Sau khi ra đời, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên đã cử người về nước vận động, lựa chọn và đưa người sang Quảng Châu để đào
tạo, huấn luyện và bồi dưỡng về chính trị, tổ chức. Lực lượng này sau khi được
huấn luyện, đào tạo trở về truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào trong phong trào
đấu tranh của các tầng lớp và giai cấp công nhân. Ban đầu tuy có ít hội viên,
nhưng với sự năng động, tích cực xây dựng phong trào, cuối năm 1927, ở Nam Định
đã có đến tám chi bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là các chi hội đường
phố, chi hội giáo dục, chi hội ghép của các công nhân, chi hội học sinh của trường
Thành Chung, trường Cửa Bắc và chi hội công nhân Nhà máy sợi Nam Định với hàng
trăm hội viên. Thành phần tham gia chủ yếu là học sinh, giáo viên, công nhân và
những người yêu nước khác.
Năm 1928,
thực hiện chủ trương vô sản hóa của Kỳ bộ Bắc Kỳ, các cán bộ, hội viên của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã hăng hái đi vào nhà máy, xí nghiệp. Trong quá
trình cùng sống, cùng lao động với công nhân, các hội viên, nhất là học sinh,
sinh viên, trí thức, tiểu tư sản đã có điều kiện hiểu hơn về giai cấp công
nhân, tự rèn luyện và nâng cao ý thức cách mạng. Từ khi có tổ chức của Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên, nhiều cuộc đấu tranh chống thực dân đã nổ ra quyết liệt,
tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân Nhà máy dệt, cuộc đình công của toàn bộ
phu kéo xe Nam Định, đặc biệt là cuộc bãi công dài ngày của công nhân Nhà máy sợi
Nam Định đã gây tiếng vang, ảnh hưởng lớn đến phong trào đấu tranh cả nước.
Ngày
19-6-1929, Ban Tỉnh ủy lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng Nam Định được thành lập,
gồm các đồng chí Nguyễn Hới (bí thư), Phạm Văn Ngọ và Lê Ngọc Rư. Trụ sở của
Ban Tỉnh ủy được đặt tại ngôi nhà số 12, phố Năng Tĩnh và một số ngôi nhà khác ở
thôn Mỹ Trọng, xã Mỹ Xá (nay là phường Mỹ Xá). Đợt đầu tiên, thành phố Nam Định
đã có 250 hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được kết nạp vào đảng. Trước
sự lớn mạnh và phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân, phong trào yêu nước,
trong vai trò là đặc phái viên của Quốc tế cộng sản, ngày 3-2-1930, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã triệu tập hội nghị thống nhất, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại
Hương Cảng (Trung Quốc). Sự kiện Đảng ra đời là bước ngoặt quan trọng của
cách mạng Việt Nam, tạo bước chuyển biến lớn cho phong trào đấu tranh cách mạng
của nhân dân thành phố Nam Định.
Để hưởng ứng
phong trào đấu tranh trong cả nước, từ năm 1930- 1945, trên địa bàn thành phố Nam
Định đã diễn ra hàng trăm cuộc đấu tranh, bãi công đòi dân sinh, dân chủ, điển
hình như cuộc bãi công của hàng ngàn công nhân Nhà máy chiếu, công nhân Nhà máy
sợi… Chỉ tính từ tháng 1-1936 đến tháng 3-1937 có 20 cuộc đấu tranh với nhiều
hình thức quyết liệt, tạo được thanh thế, có tiếng vang lớn. Trên mặt trận đấu
tranh công khai, tháng 9-1936, các đảng viên ở thành phố đã lãnh đạo quần chúng
hưởng ứng phong trào cuộc vận động “Đông Dương đại hội”, vạch mặt bọn tay sai lừa
mị dân chúng và nêu những yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động.
Tháng
2-1937, tại số nhà 2B phố Hàng Đàn (nay là phố Hoàng Văn Thụ), một số đảng viên
cộng sản lập đại lý sách báo “cánh tả” do đồng chí Phan Đình Khải (tức Lê Đức
Thọ) phụ trách để tranh thủ điều kiện thuận lợi tổ chức tập hợp các hội quần
chúng theo hướng công khai và nửa công khai. Đến tháng 8-1945, hòa cùng với khí thế đấu tranh trên cả nước,
chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân thành phố cùng với các huyện trong tỉnh
dưới sự lãnh đạo của Đảng nhất tề đứng lên giành chính quyền, làm nên cuộc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở thành
phố Nam Định là kết quả của sức mạnh quật khởi của nhân dân Nam Định theo lời
hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Với
thành công Cách mạng Tháng Tám, lịch sử thành phố Nam Định bước sang một trang mới.
II. Thành phố Nam Định anh hùng trong kháng
chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ (1946-1975)
1. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)
Sau Cách mạng
Tháng Tám, do hậu quả của nạn đói, nạn dối, thù trong giặc ngoài, chính quyền Cách
mạng non trẻ vừa mới thành lập đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng
bộ, nhân dân thành phố Nam Định vừa phải tập trung xây dựng, bảo vệ chính quyền
cách mạng, vừa phải chăm lo bảo đảm đời sống của người dân. Để khẳng định vai
trò chủ thể của người dân nước độc lập, Đảng bộ thành phố đã đổi tên các khu,
phố, tên đường do người Pháp đặt sang tên danh nhân, anh hùng dân tộc của Việt
Nam. Ngày 6-1-1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, nhân dân thành phố Nam Định đã bầu được 2 đại biểu là ông Trần Huy Liệu
và ông Nguyễn Văn Tố. Trong dịp này, ngày 11-1-1946, thành phố vinh
dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm. Những lời căn dặn chỉ bảo ân
cần của Bác đã để lại ấn tượng sâu sắc, cổ vũ Đảng bộ, nhân dân thành phố Nam Định
đoàn kết, phấn đấu, khắc phục những khó khăn, tiếp tục đi lên trong giai đoạn
cách mạng mới.
Ngày
23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng tại Sài Gòn, quay lại xâm lược nước ta. Hưởng ứng
lời kêu gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, nhiều thanh niên tự vệ và
dân quân thành phố tình nguyện lên đường “Nam tiến” đánh giặc. Trước tình hình
mới, Đảng bộ, chính quyền nhân dân thành phố khẩn trương xây dựng lực lượng vũ
trang, luyện tập quân sự, sắm sửa vũ khí sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, thu hút được
nhiều thanh niên, công nhân, nông dân cùng tham gia.
Hưởng ứng
lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đêm ngày
19-12-1946, cả thành phố Nam Định rền vang tiếng súng mở đầu cuộc kháng chiến
chống xâm lược. Tự vệ thành phố nổ mìn ngả cây to dọc đường Trần Hưng Đạo và
ngã tư Cửa Đông đến Tòa thị sảnh. Nhiều người dân thành phố đã mang đồ
đạc ra đường làm vật chướng ngại chặn bước tiến của quân địch. Trong suốt những
năm kháng chiến chống Pháp (từ tháng 12-1946 đến tháng 5-1954), dưới sự lãnh đạo
của Đảng, quân và dân thành phố Nam Định cùng với cả nước góp sức người, sức của
làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 lịch sử, buộc thực dân Pháp ký
kết hiệp định Giơnevơ về Đông Dương vào ngày 21-7-1954. Miền Bắc được giải
phóng, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sau nhiều năm bị Pháp chiếm đóng, ngày
1-7-1954, thành phố Nam Định được giải phóng, Đảng bộ và nhân dân thành
phố nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát triển sản xuất, ổn
định đời sống nhân dân, tiếp tục sự nghiệp xây dựng thành phố anh hùng.
2.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975)
Sau khi
thực dân Pháp rút quân, toàn thành phố chỉ còn các Nhà máy sợi, Nhà máy dệt và 31
cơ sở công thương nghiệp nhỏ bé, trang thiết bị cũ kỹ, lạc hậu. Nhiều cơ sở sản
xuất bị địch phá hư hỏng nặng, tháo gỡ mang đi nhiều máy móc quan trọng… Ngày
3-7-1954, Ủy ban quân quản thành phố Nam Định được thành lập đã công bố 8 chính
sách và 10 điều kỷ luật đối với vùng mới giải phóng, kêu gọi ngụy quân, ngụy
quyền và công chức cũ ra trình diện. Ủy ban quân quản thành phố đã kiện toàn
các ủy ban khu phố, đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ chính
sách của Đảng và Chính phủ, vận động nhân dân làm vệ sinh, quét dọn đường phố,
sửa sang các nhà vệ sinh công cộng, khôi phục hệ thống điện nước và mở thêm chợ
phục vụ sinh hoạt của nhân dân; từng bước khôi phục, cải tạo xã hội chủ nghĩa
và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội.
Công tác
xây dựng lại thành phố sau chiến tranh thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết
Bộ Chính trị tháng 9-1954 là “nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, phục
vụ kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế một cách có kế hoạch”. Trong 3 năm
1955-1957 thành phố Nam Định đã khôi phục được cơ bản hoạt động các nhà máy,
phát triển thêm các cơ sở sản xuất, vận động nhân dân tích cực trồng lúa, hoa
màu. Các hoạt động giáo dục, văn hóa được củng cố, đời sống của nhân dân được cải
thiện. Với những kết quả đó, ngày 24-4-1957, thành phố Nam Định được vinh dự
đón Bác Hồ về thăm lần thứ hai, động viên cán bộ, công nhân Nhà máy dệt Nam
Định.
Những năm từ 1955- 1974, thành phố Nam Định tiếp
tục được xây dựng, nâng cấp, mở rộng thêm nhiều phố xá, công sở, trường học,
xây dựng nhiều công trình giao thông, công cộng như cầu Treo qua sông Đào, sân
vận động chùa Cuối ( từ 2001 là sân vận động Thiên Trường), kè hồ và xây công
viên hồ Vỵ Xuyên, cải tạo hồ, xây bảo tàng, công viên tại hồ Truyền Thống…Từ năm
1962- 1974, với sự đầu tư lớn của Trung ương và sự viện trợ máy móc hiện đại của
các nước Xã hội chủ nghĩa, nhà máy Liên hợp dệt Nam Định trở thành trung tâm dệt-
sợi- nhuộm lớn nhất miền Bắc. Ngành dệt Nam Định đã trở thành biểu tượng của
thành phố và có vị thế, đóng góp to lớn về công nghiệp cho cả miền Bắc XHCN.
Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân thành phố Nam Định cùng với nhân dân toàn miền Bắc
chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội,
dồn sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, chiến đấu chống lại chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt 2 lần chống
chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, thành phố Nam Định cùng Hà
Nội, Hải Phòng là một trong những trọng điểm bị đánh phá ác liệt. Mặc dù nhiệm
vụ hết sức nặng nề vừa phải sơ tán người, trang thiết bị máy móc, vừa phải đảm
bảo sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu, song với tinh thần mỗi người dân
làm việc bằng hai, quân dân thành phố vẫn đảm bảo và hoàn thành tốt các chỉ
tiêu kinh tế phục vụ chiến đấu và chi viện cho chiến trường miền Nam. Với khẩu
hiệu “thóc vượt cân, quân thừa người”, trong 3 năm (1965-1967) thành phố đã có
5.887 người nhập ngũ. Riêng năm 1972, có 1515 thanh niên nhập ngũ, vận chuyển
vào chiến trường miền Nam 84.754 tấn hàng theo đường thủy và 170.778 tấn hàng
theo đường bộ. Trong cuộc không kích 12 ngày đêm của đế quốc Mỹ tại Hà Nội, Hải
Phòng và các tỉnh phía Bắc tháng 12-1972, quân và dân thành phố Nam Định đã bắn
rơi 18 máy bay Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái.
Những chiến
công, đóng góp to lớn của quân, dân thành phố Nam Định cùng với thắng lợi cả nước
buộc đế quốc Mỹ phải trở lại đàm phán, ký kết hiệp định Paris ngày 27-1-1973 về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ghi nhận những thành tích,
công lao đóng góp trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Đảng, Nhà nước đã tặng thưởng
nhân dân thành phố nhiều huân chương, huy chương; phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân” cho quân và dân thành phố năm 1978.
III. Thành phố Nam Định trong quá trình xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc, khắc phục khó khăn về
kinh tế xã hội từ năm 1975-1985
Sau đại
thắng 30-4-1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất. Tháng
12-1976, Quốc hội quyết định đổi tên nước thành Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Thành phố Nam Định tiếp tục được chọn làm thủ phủ, trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Hà Nam Ninh ( sáp nhập từ 3 tỉnh: Nam Định,
Ninh Bình, Hà Nam). Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng, sự chỉ đạo
của Tỉnh ủy, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VI (vòng I tháng 12-1976, vòng
II tháng 4-1977) xác định “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
bộ, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời 3
cuộc cách mạng; khai thác tốt nhất khả năng tiềm tàng của địa phương, dấy lên
cao trào sôi nổi trên lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, tạo một bước
phát triển vượt bậc trong nông nghiệp; chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất hàng
tiêu dùng, vật liệu xây dựng, xuất khẩu và phục vụ nông nghiệp, xây dựng hoàn
chỉnh vùng thực phẩm ngoại thành. Kết hợp chặt chẽ công nghiệp với nông nghiệp,
nội thành với ngoại thành; tập trung xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ
sản xuất và cải thiện đời sống; tăng cường quản lý kinh tế, quản lý thành phố về
mọi mặt. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, phấn đấu xây dựng
thành phố Nam Định thành thành phố xã hội chủ nghĩa có công nghiệp và nông nghiệp,
văn hóa và khoa học kỹ thuật phát triển, quốc phòng an ninh vững mạnh, đời sống
ấm no lành mạnh, xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh Hà
Nam Ninh”.
Thời kỳ 1981-1985, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân và
dân thành phố Nam Định đã đoàn kết vượt qua khó khăn, đạt được nhiều thành tích
quan trọng. Với truyền thống là thành phố Dệt anh hùng, cán bộ, công nhân Nhà máy
Liên hợp dệt đã khắc phục mọi khó khăn, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể
xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành tốt các chỉ tiêu đề ra. Công
tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực trên cả 3 phương diện tư tưởng,
chính trị và tổ chức; đồng thời nâng cao một bước năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng bộ thành phố. Kinh tế có bước phát triển mới, tốc độ tăng trưởng
công nghiệp đạt 6,2%/năm, thủ công nghiệp đạt 4,6%/năm. Tỉnh tiếp tục đầu tư mở
rộng, nâng cấp hạ tầng như xây dựng các khu nhà tập thể 3,5 tầng cho công nhân,
xây dựng thêm nhiều tuyến phố: đường Thanh Niên ( từ năm 1995 là đường Trường
Chinh), đường Giải Phóng… Trung ương đầu tư xây dựng tại thành phố 1 số trường Cao
đẳng ( sau nâng cấp lên Đại học) như: Kinh tế- Kỹ thuật, Sư phạm Kỹ thuật, Điều
dưỡng… Các mặt văn hóa, y tế, giáo dục đều có những tiến bộ mới. Đời sống nhân
dân được cải thiện. An ninh quốc phòng được giữ vững. Những kết quả trên chính
là nền tảng quan trọng, mở ra thời kỳ mới để Đảng bộ thành phố Nam Định bước
vào thực hiện sự nghiệp xây dựng thành phố trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
IV. Thành phố Nam Định vươn lên đổi mới, xây
dựng, phát triển cùng đất nước từ năm 1986 đến nay
1.
Quá trình xây dựng và phát triển thành phố từ năm 1986-1998
Dưới ánh
sáng Đổi mới của Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng ( tháng12-1986), thực
hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, các hợp
tác xã nông nghiệp tiếp tục đổi mới quản lý, tổ chức kinh doanh dịch vụ sản xuất
nông nghiệp. Các xã ngoại thành đẩy mạnh thâm canh cây lúa, trồng rau, chăn
nuôi. Công thương nghiệp không ngừng mở rộng, phát triển đa dạng hơn với hệ thống
các cửa hàng kinh doanh buôn bán ở các chợ, các tuyến phố, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc lưu thông hàng hóa. Nhà máy Liên hợp dệt đổi mới để phù hợp với cơ chế mới, tiếp tục là
cơ sở kinh tế lớn, lúc cao điểm thu hút hơn 1,5 vạn cán bộ, công nhân và người
lao động, cùng nhà máy Dệt lụa tiếp tục khẳng định vai trò Thành phố dệt trong
cả nước.
Lĩnh vực
giao thông vận tải, xây dựng và quản lý đô thị có những chuyển biến tích cực. Bên
cạnh 77 tuyến đường, phố cũ được tu sửa, nâng cấp, thành phố xây dựng, đưa vào
sử dụng với trên 50 đường, phố mới. Đầu năm 1991, bến xe ô tô khách thành phố được
xây dựng mới ngã ba đường Điện Biên- Giải Phóng với diện tích hơn 3 ha. Ngày
23-12-1994, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 793 về phê duyệt hoàn chỉnh
quy hoạch xây dựng thành phố đến năm 2000, mở ra điều kiện thuận lợi để thành
phố Trung ương, của tỉnh đầu tư nâng cấp hạ tầng, phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống nhân dân thành phố.
Khắc phục
khó khăn thời kỳ hậu bao cấp, trong các năm 1991 đến 1997, hạ tầng giao thông,
đô thị thành phố Nam Định được đầu tư xây dựng phát triển mở rộng. Tỉnh đã khánh
thành, đưa vào khai thác sử dụng cầu Đò Quan quy mô lớn qua sông Đào thay cho cầu
Treo cũ (tháng 7-1994). Các công trình công cộng được tỉnh, thành phố ưu tiên,
dành ngân sách để tôn tạo, nâng cấp, xây dựng nhiều công sở, trường học, cơ bản
nhựa hóa đường nội thành. Hệ thống lưới điện được nâng cấp, cải tạo, nhiều tuyến
đường, phố có điện chiếu sáng công cộng. Nhà máy nước sạch được đầu tư mở rộng,
hơn 80% số hộ dân được sử dụng nước sạch. Giáo dục và đào tạo tiếp tục giữ vững
chất lượng dẫn đầu toàn tỉnh. Nhiều trường học được xây mới cao tầng khang trang,
giải quyết tình trạng phải học ca 3 trong các trường phổ thông; nhiều trường đạt
chuẩn quốc gia. Chợ Rồng được xây mới 3 tầng hiện đại, hoàn thành đưa vào sử dụng
năm 1996; các chợ Mỹ Tho, Hạ Long… được đầu tư nâng cấp khang trang. Các cơ sở
y tế phục vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân tiếp tục được quan tâm, đầu tư mở rộng,
xây mới như bệnh viện Agáp (nay là Trung tâm y tế thành phố), Bệnh viện Đa khoa
tỉnh xây mới 1 nhà điều trị, trang bị thêm phương tiện, thiết bị kỹ thuật.
Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa, vệ sinh đường phố khu dân cư có nhiều nét
mới.
Đầu năm
1997, sau khi chia tách tỉnh Nam Hà, tái lập tỉnh Nam Định, điều chỉnh địa giới
hành chính thành phố, thành phố Nam Định chuyển 3 xã Mỹ Tân, Mỹ Trung, Mỹ Phúc
về huyện Mỹ Lộc và sáp nhập 2 xã Nam Vân, Nam Phong vào thành phố như hiện nay.
Tỉnh và thành phố tiếp tục ưu tiên, huy động các nguồn vốn nâng cấp, xây mơí
nhiều đường phố, công viên, công sở, nhà máy, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội,
xây dựng thành phố thành đô thị có quy mô hiện đại. Các ngành nghề công nghiệp,
xây dựng, xăng dầu, điện lực, may mặc, dệt kim tiếp tục có bước phát triển mới,
nhiều doanh nghiệp phát triển mạnh như Công ty Dược Nam Hà, Công ty May Sông Hồng,
Công ty Xây lắp I, Công ty bia Nada... Công tác quản lý, chỉnh trang đô thị được
quan tâm đầu tư, triển khai thực hiện. Dự
án phát triển đô thị do Chính phủ Thụy Sĩ tài trợ đã xây dựng hệ thống thoát nước
phía Tây Nam thành phố nối với trạm bơm Kênh Gia, xây mới các tuyến cống thoát
nước tại các phường Văn Miếu, Trần Đăng Ninh, Cửa Bắc… Nhiều công trình công cộng
được xây dựng, nâng cấp như Cột Cờ, Quảng
trường 3-2, các công viên Vị Xuyên, Điện Biên, Nghĩa Trang, Đài tưởng niệm Liệt
sỹ. Các cơ quan, công sở trường học được cao tầng hóa. Nhiều khu dân cư
được cải tạo, nâng cấp khang trang hơn. Thương mại, dịch vụ phát triển như: vận
tải, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính, viễn
thông…Đạt được kết quả to lớn trên, thành phố Nam Định được Thủ tướng Chính phủ
công nhận là đô thị loại II tại Quyết định số 183/1998/QĐ-TTg, ngày 24-9-1998, đưa
thành phố trở thành 1 trong các đô thị lớn của cả nước khi đó.
2.
Quá trình xây dựng, phát triển thành phố từ năm 1999-2011
Thực hiện
sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ
XIII (tháng 11/2000) đã xác định: “Phát huy sức mạnh tổng hợp, khắc phục khó
khăn, huy động tốt nguồn lực, tranh thủ mọi khả năng về hợp tác đầu tư trong và
ngoài nước, tạo sức bật phát triển mạnh mẽ về kinh tế, nâng cao mức sống, văn
hóa, trình độ văn minh đô thị. Chủ động hội nhập vào quá trình tăng trưởng của
tỉnh, của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, xây dựng thành phố văn minh, hiện đại;
tăng cường quốc phòng an ninh; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, xây dựng thành phố
Nam Định xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật
của tỉnh Nam Định”.
Từ năm
2000-2005, bằng nhiều nguồn vốn đầu tư, thành phố Nam Định tiếp tục mở rộng
không gian khu vực nội thành, nâng cấp hạ tầng giao thông, đô thị. Trên địa bàn
thành phố, Tỉnh đã đầu tư xây dựng khu công nghiệp Hòa Xá 240 ha, khu công nghiệp
Mỹ Trung 192 ha, thành phố xây dựng Cụm
công nghiệp An Xá 54 ha, thu hút hàng trăm doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Tập
đoàn Nam Cường xây dựng khu đô thị mới Hòa Vượng 63 ha quy mô hiện đại, thành phố xây dựng các khu tái định cư Đông Mạc
8 ha, Trầm Cá 11 ha, Đồng Quýt 12ha có hạ tầng đồng bộ, mở rộng không gian đô
thị, nhân dân xây dựng nhà ở khang trang. Tượng đài Trần Hưng Đạo được xây dựng
quy mô cùng công viên Vỵ Xuyên nâng cấp, hoàn thành năm 2000 mang lại diện mạo
mới, đẹp cho cảnh quan thành phố.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ trên địa bàn thành
phố phát triển tích cực, tăng trưởng bình quân trên 20%/năm. Năm 2004, có 2112
cơ sở sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố
đạt 1.945 tỷ đồng (tăng 22,3% so với năm 2003), trong đó công nghiệp Trung ương
đạt 924,8 tỷ đồng, tỉnh quản lý đạt 750 tỷ đồng, vốn đầu tư nước ngoài đạt 36,5
tỷ đồng, công nghiệp dân doanh do thành phố quản lý đạt 233,6 tỷ đồng; giá trị
xuất khẩu do thành phố quản lý đạt 8,45 triệu USD, tăng 98% so với năm 2003.
Thành phố Nam Định tiếp tục khẳng định là 1 trong các trung tâm công nghiệp lớn
của miền Bắc.
Sản xuất
nông nghiệp chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa; đạt tốc độ
tăng trưởng bình quân 9,1%/năm. Phong trào giảm nghèo, làm giàu từ nông nghiệp được
nhân rộng và có nhiều điển hình tốt. Các hoạt động dịch vụ, du lịch, giao
thông, bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, kho bạc phát triển khá đồng
bộ. Hệ thống phát thanh, truyền thanh từng bước được hiện đại. Tổng thu ngân
sách trên địa bàn tăng đều qua các năm, chiếm 50% ngân sách toàn tỉnh
Quá trình
đô thị hóa nhanh làm thay đổi diện mạo thành phố, tăng khả năng kết nối giao
thông với thủ đô Hà Nội và các tỉnh bạn. Đến năm 2003, dự án cải tạo lưới điện
thành phố cơ bản hoàn thành, điện chiếu sáng công cộng được xây lắp đồng bộ
trên các tuyến phố và công trình công cộng. Hệ thống đường giao thông được mở rộng,
Trung ương và Tỉnh xây dựng, nâng cấp nhiều công trình lớn như quốc lộ 10, quốc
lộ 21, cầu Tân Đệ qua sông Hồng, cầu Lộc An qua sông Đào… Dự án cấp nước FA 3 hoàn
thành, nâng công suất nước sạch từ 25 nghìn lên 50 nghìn m3/ngày
đêm, đảm bảo cho hơn 90% hộ dân được dùng nước máy. Thành phố Nam Định nhiều năm liền
được Bộ Xây dựng và Hiệp hội các đô thị Việt Nam đánh giá nằm trong nhóm 10 đô
thị “ Sáng- Xanh- Sạch- Đẹp” nhất cả nước.
Từ năm
2006 đến năm 2010, thực hiện Nghị quyết 54-NQ/TW, ngày 14-9-2005 của Bộ Chính
trị, Quyết định số 109/2006/QĐ-TTg, ngày 19-5-2006 của Thủ tướng Chính phủ về
xây dựng thành phố Nam Định trở thành đô thị trung tâm vùng Nam đồng bằng sông
Hồng; Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 01-12-2006 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Kế
hoạch số 60/KH-UBND tỉnh về xây dựng thành phố trở thành đô thị trung tâm kinh
tế-văn hóa xã hội vùng Nam đồng bằng sông Hồng, thành phố Nam Định tiếp tục được
đầu tư xây dựng về hạ tầng, giao thông, đô thị, công nghiệp… Hệ thống giao
thông được nâng cấp và xây dựng mới, hoàn chỉnh đồng bộ từ hè, đường, thoát nước,
cấp nước, điện chiếu sáng. Các khu đô thị, khu tái định cư được đầu tư hiện đại
mở rộng không gian đô thị. Dự án nâng cấp, cải tạo hạ tầng các khu dân cư của
Ngân hàng thế giới tài trợ với số vốn hơn 1.000 tỷ đồng giai đoạn 2004-2012 đã
thay đổi hạ tầng, cảnh quan các ngõ, xóm, khu dân cư. Nhiều công trình lớn về
văn hóa, thể thao, các trung tâm thương mại, bệnh viện, trường học, bảo tàng,
công sở… được đầu tư xây dựng tạo nên bộ mặt khang trang, hiện đại của đô thị lớn.
Bằng
quá trình vươn lên, phát triển không ngừng, thành phố Nam Định đã được Thủ tướng
Chính phủ công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh tại Quyết định số 2016/QĐ-TTg,
ngày 28-11-2011, tiếp tục
là đô thị lớn của cả nước. Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số
2084/QĐ-TTg, ngày 22-11-2011 phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng
thành phố đến năm 2025.
3.
Quá trình xây dựng và phát triển thành phố từ năm 2012 đến nay
Sau khi được công nhận là đô thị
loại I, Tỉnh và thành phố đã tập trung xây dựng, phát triển thành phố Nam Định
hình thành rõ nét một số chức năng Trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng,
thành phố thực hiện “Điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Nam Định đến năm
2040, tầm nhìn đến năm 2050”, định hướng xây dựng thành phố văn minh, thân thiện
với môi trường, có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại, tạo cơ hội thuận lợi cho các chương trình phát triển, các dự án đầu tư.
Tổng
nguồn vốn đầu tư trong 5 năm( 2010-2015) đạt trên 30.000 tỷ đồng, tăng 45% so với
giai đoạn 2005-2010. Các công trình hạ tầng công cộng được nâng cấp, mở rộng và
đầu tư mới như đại lộ Thiên Trường, Cung Thể thao Nam Định, đường Võ Nguyên
Giáp, khu tưởng niệm đồng chí Lê Đức Thọ, khu Văn hóa thời Trần; cầu Tân Phong
qua sông Đào; các khu đô thị Thống Nhất, Mỹ Trung, khu tái định cư Phúc Tân- Bãi Viên, Phạm Ngũ Lão, Tây Đông Mạc…
Thành phố đã giải phóng mặt bằng 45 dự án, góp phần quan trọng vào quá trình
nâng cấp, hiện đại hạ tầng đô thị.
Từ năm 2015 đến nay, tỉnh và thành phố tăng cường xúc tiến đầu tư, huy động các nguồn vốn, hoàn thành các công
trình lớn như: tổ hợp trung tâm thương mại và
nhà ở Nam Định Tower 2 khối nhà cao 18-20 tầng,
khách sạn Nam Cường
4 sao 20 tầng; khu đô thị Dệt may; đường trục trung tâm phía Nam thành phố; khu đô thị mới phía Nam sông Đào, khu đô thị mới Mỹ Trung giai đoạn II;
thu hút các nhiều doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp
Hòa Xá, Mỹ Trung… Nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng, các tập đoàn lớn mở chi
nhánh tại thành phố như: VietcomBank, TPBank, HDBank, Ngân hàng TMCP Quân
đội, Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội…Nhiều công viên, hồ nước được cải tạo, kè, xây
dựng đường dạo. Các công sở, trường Đại học, Cao đẳng được xây dựng, nâng cấp cao
tầng… đã thay đổi cơ bản diện mạo thành phố theo hướng hiện đại, văn minh.
Ngày
ngày 17-9-2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1422/QĐ-TTg phê duyệt
điều chỉnh quy hoạch chung thành phố Nam Định đến năm 2040, tầm nhìn đến năm
2050, tạo cơ sở pháp lý
quan trọng để thành phố Nam Định mở rộng không gian, đầu tư xây dựng hiện đại,
xứng tầm là đô thị lớn. Theo đó, phạm vi lập quy hoạch bao gồm toàn bộ thành phố
Nam Định hiện nay diện tích 46,41km2; huyện Mỹ Lộc 74,49km2;
3 xã Đại An, Thành Lợi, Tân Thành của huyện Vụ Bản 26,48km2 và 5 xã:
Nam Mỹ, Nam Toàn, Hồng Quang, Điền Xá, Nghĩa An của huyện Nam Trực 40,6km2,
với tổng diện tích khoảng 188km2. Quy mô dân số của thành phố Nam Định
đến năm 2030 khoảng 520.000 người; trong đó dân số nội thị khoảng 384.500 người.
Đến năm 2040, dân số khoảng 600.000 người, trong đó dân số nội thị khoảng
485.000 người.
Để xây dựng, phát triển thành phố Nam Định hiện đại, đồng bộ, có bản sắc, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ
XVII ( tháng 9-2020) đã đề ra mục tiêu: mở rộng không gian đô
thị, thu hút đầu tư 3-4 khu đô thị mới hiện đại; tăng cường kết nối khu vực nội thành ra phía
Nam, Tây Bắc, Tây Nam. Khai thác hiệu quả quỹ đất 2 bên đường Nam sông Đào, đại
lộ Thiên Trường. Phát triển đặc trưng và bản sắc của thành phố Nam Định như Văn
hóa Trần, truyền thống đất học, không gian khu phố cổ, Nhà máy Dệt cũ, làng trồng
hoa, cây cảnh... Triển khai thực hiện hiệu quả các hợp phần của
Đề án xây dựng đô thị thông minh theo tinh thần Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ
Chính trị. Tập trung xây dựng trung tâm điều hành đô thị thông minh, chuyển đổi
số ở một số lĩnh vực trọng điểm, lắp đặt hệ thống camera giám sát và quản lý đô
thị. Đẩy nhanh tiến độ một số công trình, dự án trọng điểm như: cầu Song Hào
qua sông Đào và đường trục Nam thành phố, khu đô thị mới phía Nam sông Đào, khu
đô thị Mỹ Trung, Khu Trung tâm lễ hội thuộc dự án Văn hóa Trần, Bệnh viện đa
khoa 700 giường, Khu xử lý rác thải và nhà máy điện rác tại xã Mỹ Thành, huyện
Mỹ Lộc; xây dựng mới Trụ sở Thành ủy, HĐND, UBND thành phố Nam Định tại Khu đô
thị Thống Nhất; xây dựng mới trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong….
Trải qua
35 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, xây dựng thành phố trên các mặt, hiện nay
kinh tế thành phố tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tổng giá trị sản xuất
năm 2020 đạt 74.641 tỷ đồng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng; vốn
đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2015-2020 đạt 43.697 tỷ đồng, chiếm 30% toàn tỉnh;
tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng tăng qua các năm, trong 5 năm trở lại
đây đạt 11.688 tỷ đồng. Kết cấu hạ tầng được tập trung đầu tư xây dựng, làm
thay đổi rõ nét hạ tầng, cảnh quan thành phố, tạo điều kiện phát triển toàn diện
các lĩnh vực, đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội. Văn hóa, giáo dục, an sinh xã hội
tiếp tục được phát huy. Nhiệm vụ quốc phòng, ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội bảo đảm an, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế- xã hội và cuộc
sống bình yên cho nhân dân. Công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị tiếp tục
có nhiều đổi mới cả về nội dung, phương thức hoạt động. Đời sống, thu nhập, việc
làm, văn hóa… của nhân dân không ngừng tăng lên. Nhiều chủ trương lớn nhận được
sự đồng thuận cao, nhân dân tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, chính quyền
từ thành phố tới phường, xã.
4. Định hướng phát triển trong thời gian tới
Tháng
6-2021, Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU về xây dựng
phát triển thành phố. Thường trực Tỉnh ủy đã có thông báo chủ trương đầu tư các
công trình lớn trên địa bàn và chủ trương thực hiện mở rộng địa giới hành
chính theo quy hoạch. Thành phố
Nam Định phát triển theo mô hình đa cực, lấy sông Đào và đô thị trung tâm hiện
hữu làm trung tâm mở rộng, kết nối theo hướng Tây Bắc và Đông Nam. Mục tiêu đến
năm 2030, thành phố Nam Định là đô thị
trung tâm vùng Nam đồng bằng sông Hồng; là trung tâm 1 số ngành công nghiệp, đào
tạo, khoa học, y tế, thể thao, dịch vụ, du lịch cho vùng Nam đồng bằng sông Hồng.
Đến năm 2040, thành phố Nam Định là thành phố lớn, trung tâm công nghiệp, dịch
vụ trong cả nước, là đô thị thông minh, thành phố đáng sống với bản sắc và các giá trị văn hóa, lịch sử được
bảo tồn và phát huy.
Quá trình
100 năm xây dựng hình thành và phát triển, trải qua nhiều thăng trầm, thành phố
Nam Định luôn đồng hành cùng tiến trình chung của lịch sử dân tộc. Với vị thế của
một trong những đô thị có bề dày truyền thống, thành phố đã và đang nhận được sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh, đầu tư xây dựng để thành
phố phát triển, từng bước trở thành đô thị hạt nhân, trung tâm của vùng Nam đồng
bằng sông Hồng. Nhìn lại chặng đường đã qua, các cấp ủy đảng, chính quyền từ
thành phố đến cơ sở có thêm niềm tin, động lực để nâng cao bản lĩnh, quyết tâm
đổi mới và hành động, thu hút và huy động tối đa mọi nguồn lực đầu tư trong và
ngoài nước; kêu gọi sự chung tay góp sức của các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp
xây dựng thành phố đúng với vị thế là 1
trong các thành phố đầu tiên của cả nước 100 năm trước, thành phố lớn thứ 3 miền
Bắc giai đoạn từ năm 1950- 1980.
THÀNH ỦY- HĐND- UBND TP NAM ĐỊNH